Tìm hiểu làn điệu Sli của người Nùng ở Yên Sơn

10/06/2025 - 10:43
320

Là địa bàn bao quanh thành phố Tuyên Quang, huyện Yên Sơn luôn gắn bó chặt chẽ với thành phố trên nhiều phương diện và có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Ngoài những lợi thế về đất đai, nguồn nhân lực, khoáng sản... để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, huyện có những phong cảnh đẹp như núi Nghiêm, hang Gió; các di tích lịch sử cách mạng: ATK Kim Quan, Làng Ngòi - Đá Bàn, Chiến thắng Khe Lau, Chiến thắng KM7...; các đền, chùa, đình: Đền Lương Quán, đền Minh Lương, chùa Minh Cầm, chùa Phật Lâm... mở ra tiềm năng phát triển du lịch, thu hút khách tham quan khi đến với Tuyên Quang.

Trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Nùng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang

Yên Sơn có 22 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 46,7% dân số toàn huyện, chủ yếu là dân tộc Tày, Dao, Mông, Nùng... Riêng người Nùng có 1.102 hộ, với khoảng 4.842 nhân khẩu. Các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện có bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, với nhiều loại hình mang bản sắc riêng. 

Dân tộc Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái của hệ ngôn ngữ Thái- Kađai. Ở Tuyên Quang, dân tộc Nùng gồm ba nhánh và sống tập trung tại hai huyện: Nhóm Nùng An, Nùng Đen sinh sống tại huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa; nhóm Nùng Giang sinh sống tại huyện Na Hang; nhóm Nùng U sinh sống tại huyện Yên Sơn được phân bố theo nhánh, sống rải rác tại các huyện như: huyện Sơn Dương và huyện Chiêm Hóa có Nùng An, Nùng Đen sinh sống tập trung, huyện Na Hang có nhánh Nùng Giang, nhóm Nùng U và Nùng Đen tập trung sinh sống tại huyện Yên Sơn. Các xã có số người Nùng U sống tập trung: Kim Quan, Công Đa, Trung Sơn, Tiến Bộ. Người Nùng Đen chủ yếu sống tập trung tại xã Hùng Lợi.

Hát Sli trong đám cưới của người Nùng, huyện Yên Sơn

Văn hóa truyền thống của dân tộc Nùng ở huyện Yên Sơn được bộc lộ ở nhiều phương diện, nhưng khởi thủy của mọi điều vẫn bắt đầu từ mỗi gia đình, với nếp nhà, cốt cách gia phong lưu truyền trong đời sống gia đình, dòng họ từ đời này qua đời khác, trở thành một giá trị bất biến.

Trải qua nhiều thế hệ người Nùng ở Tuyên Quang nói chung và ở huyện Yên Sơn nói riêng đã gìn giữ, phát huy vốn văn hóa tinh thần phong phú của dân tộc mình, trong đó phải kể đến làn điệu Sli. Dân tộc Nùng gọi Sli nghĩa là “thơ”, một làn điệu dân ca trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Nùng. Hát Sli (vả Sli) gắn liền với truyền thuyết nàng tiên mở hội thi kén chồng với ba chàng trai họ Chương, họ Sình và họ Lý bằng việc hát đối đáp các làn điệu Sli.

Mỗi nhánh của dân tộc Nùng có làn điệu sli khác nhau. Hát sli là hình thức hát thơ (chủ yếu là truyện thơ), được biểu diễn dưới dạng đối đáp nam nữ, thường do một hoặc một vài đôi trai gái thể hiện trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày vào nhà mới... Cuộc hát bắt đầu khi có người lĩnh xướng, có giọng vang, trong và có khả năng ứng đối khéo léo, nhanh nhạy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải có người cất lời Sli để đáp lại với lối hát bè, hòa thanh giọng cao, giọng thấp, không có nhạc đệm, không có vũ đạo kèm theo, khi hát người hát tự phối bè với nhau, giao lưu, trình diễn theo một chủ đề, cốt truyện nhất định do người hát tự biên tự diễn thể hiện qua nét mặt, qua một vài cử chỉ, điệu bộ của tay để diễn tả nội dung khi hát.

 Mở đầu cho chủ đề các bài hát Sli thường có phần hô ngữ lên giọng  “nhì à sloong hao” (nghĩa là “Hai đôi ta cùng hát”) hoặc các hô ngữ khác nhau của các nhánh người Nùng thay cho lời chào hỏi, tiếp đó mới vào nội dung của bài hát Sli. Đây được ví như chìa khóa để mọi người hát đơn hay bè được đúng, không bị chệch giọng và hòa thanh được chuẩn khi hát vào bài chính. Có thể nói bài hát hấp dẫn hay không phụ thuộc vào người hát và lấy giọng câu mở đầu.

Thông thường, Sli có 3 lối hát cơ bản là: Hát nói (đọc thơ); Xướng Sli (ngâm thơ); Dằm sli  hoặc nhằm sli (lên giọng hát).

- Hát nói:  Đây là lối hát không có giai điệu mà chỉ có sắc thái lên xuống của âm điệu giọng đọc, không đòi hỏi nhiều kỹ năng, kỹ thuật trong diễn xướng, lối hát phù hợp với những bài có nội dung, cảm xúc mộc mạc, nhịp điệu mạch lạc, rõ ràng.

- Xướng Sli: Thể hiện tình cảm dàn trải, ngâm ngợi, nhịp điệu tự do, giai điệu thường được tô điểm bởi các nốt luyến láy hoa mỹ ở cuối câu tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển, người nghe dễ dàng cảm nhận được tính chất trữ tình, sâu lắng của bài. Về cơ bản, lối ngâm thơ gần giống với lối đọc thơ nhưng ngâm thơ có sự uyển chuyển và giai điệu rõ ràng hơn, mỗi chữ trong câu hát có thể hát lên với nhiều âm thanh, âm sắc khác nhau bên cạnh âm thanh chính.

- Dằm sli hoặc nhằm sli: Thể hiện bài hát một cách hoàn chỉnh cả về giai điệu, tiết tấu, lời ca; lối hát này thể hiện sự phức tạp trong cách luyến láy, nhấn nhá một cách uyển chuyển... Điều đó đòi hỏi người hát phải có sự am hiểu, khả năng cảm thụ âm nhạc và cách phát âm, nhả chữ sao cho thể hiện được rõ nhất nét riêng trong âm nhạc của đồng bào dân tộc Nùng.

Đối với Sli tự do: Là lối hát diễn ra trong quá trình lao động sản xuất, quá trình sinh hoạt mà phổ biến hơn cả là trong các dịp tìm hiểu nam, nữ, dịp đi chợ, đi hội, thăm thân, kết bạn, đi lễ tết; sinh nhật đám cưới, đám ma, mừng nhà mới, đầy tháng cho trẻ sơ sinh.

Đối với Sli cuộc: Sli cuộc là lối hát có tổ chức quy củ, chặt chẽ, có lề lối trong một không gian hẹp, thường là tại một nhà hoặc một làng nào đó. Để chuẩn bị cho cuộc hát này, đôi nam hoặc nữ khách ở bản khác phải thông tin trước cho gia chủ tổ chức cuộc hát để nhận được sự đồng ý về cuộc hát. Cuộc hát phải có ít nhất từ hai người trở lên, khác giới. Sli cuộc có thể kéo dài thâu đêm đến sáng hôm sau, cá biệt có cuộc kéo dài ba đêm liên tục.

Thông thường, một cuộc hát Sli thường diễn ra theo ba chặng:

Chặng thứ nhất: Những bài hát chào mời thăm hỏi, nếu cảm thấy hợp nhau cuộc Sli sẽ kéo dài.

Chặng thứ hai: Những bài hát trao đổi tâm tư, tình cảm, giai đoạn lôi cuốn nhất của hát Sli, hai bên sẽ đối đáp xoay quanh những vấn đề trong cuộc sống hằng ngày: tâm sự, ca ngợi vẻ đẹp quê hương, xứ sở, con người.

Chặng thứ ba: Những bài tiễn biệt dặn dò, những lời chúc, lời hẹn ước với nhau, mong một ngày tái ngộ để lại được cùng nhau say đắm trong những câu ca Sli.

Về kết cấu, nhìn chung Sli là những bài thơ, văn vần có độ dài ngắn khác nhau, thường được thể hiện theo thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt. Cơ bản các bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, cá biệt có những bài Sli chỉ có từ 5 đến 7 chữ, có những bài dài đến hàng trăm câu. 

Lời Sli không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm của bao đôi trai gái mà còn có cả các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử…, đôi khi có cả những lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli ví von, bóng bẩy, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý...

Không gian diễn xướng của Sli rất đa dạng. Sli có thể diễn ra ở ngoài trời trong các dịp như các ngày chợ phiên, các lễ hội truyền thống...  Hát Sli là phương tiện giao tiếp trên mọi phương diện cuộc sống, hiện hữu, gắn bó với cuộc sống người Nùng: xe duyên, chúc phúc, giãi bày...

Hát Sli, là sợi dây kết nối giữa các nhóm người có thể chưa quen biết với nhau; là dịp trao đổi tình cảm, thể hiện mối quan hệ, ứng xử, giao tiếp tốt đẹp cả 3 chiều: Cá nhân - cá nhân, cá nhân - cộng đồng và cộng đồng - cộng đồng. Sli giúp gắn kết tình cảm cộng đồng làng, bản trở nên gắn bó và sâu sắc hơn, đặc biệt nhiều đôi nam nữ đã nên duyên vợ chồng, nhiều người đã thành những đôi bạn thông qua tục kết “lạo tồng” (kết bạn thân), góp phần củng cố ý thức cộng đồng, bồi đắp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

Hát Sli thể hiện kỹ năng, nghệ thuật thanh nhạc đặc biệt của người Nùng, là nơi nuôi dưỡng, sáng tạo giá trị văn hóa của cộng đồng. Hát Sli thể hiện quan niệm về đạo đức, chứa đựng những giá trị nhân văn, hướng thiện, truyền tải tri thức dân gian, lưu giữ ngôn ngữ của cộng đồng, góp phần giáo dục, bảo lưu, trao truyền ý thức về cội nguồn, sự tôn kính, lòng biết ơn ông bà, tổ tiên./.

Thực hiện: Trịnh Thị Minh Thảo (Trung tâm Chính trị huyện Yên Sơn)

bình luận

Tìm kiếm

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ UBND HUYỆN YÊN SƠN

Giấy phép xuất bản số: 80/GP-TTĐT của Sở thông tin và Truyền thông tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 12/10/2021

Cơ quan chủ quản: UBND HUYỆN YÊN SƠN

Đơn vị thường trực: Trung tâm Văn hóa - Truyền thông và Thể thao Huyện Yên Sơn

Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Ông Lê Quang Toàn - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Yên Sơn

Số điện thoại liên lạc: 0913 933 996

Trụ sở cơ quan: Ủy ban nhân dân huyện Yên Sơn - Thị trấn Yên Sơn, Huyện Yên Sơn, Tỉnh Tuyên Quang.

Điện thoại hỗ trợ: 02073 872 318; Email: yenson@tuyenquang. gov.vn

Ghi rõ nguồn "Ủy ban nhân dân huyện Yên Sơn" và dẫn đến URL nguồn tin khi phát hành lại thông tin từ website này.

Thống kê truy cập
Số người online:
1
Số lượt truy cập tháng:
1
Số lượt truy cập năm:
1
Chung nhan Tin Nhiem Mang